6 BIỂU ĐỒ CHO THẤY ẢNH HƯỞNG CỦA GIÃN CÁCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ĐẾN CHUỖI CUNG ỨNG

Việt Nam có thể đã kết thúc một trong những đợt giãn cách lâu nhất trong kỷ nguyên đại dịch vào ngày 1 tháng 10, nhưng các chuỗi cung ứng vẫn đang lao đao do những hệ quả của nó.

Linh Pham qua Getty Images

Bốn tháng tăng cường các hạn chế để giảm bớt một đại dịch chết người đã gây thiệt hại cho người dân, nền kinh tế và các đối tác kinh doanh của đất nước. Đơn đặt hàng bị hủy và sự chậm trễ của sản phẩm đã trở thành chuyện bình thường đối với các doanh nghiệp Hoa Kỳ có nhà cung cấp tại Việt Nam, khi các ca nhiễm COVID-19 tràn ngập trong nước. Việt Nam đã mở cửa trở lại, nhưng các nhà sản xuất hiện đang lo ngại về tình trạng thiếu lao động mới sau khi hàng nghìn công nhân nhập cư — nhiều người trong số họ bị mất việc làm trong thời gian ngừng hoạt động — rời khỏi đất nước sau khi các lệnh cấm được dỡ bỏ.

Dưới đây là sáu biểu đồ để nhìn lại cách các hạn chế được gỡ bỏ và các ảnh hưởng đang tăng dần đối với hoạt động kinh doanh.

1. Một đối tác thương mại đang lên của Hoa Kỳ 

Theo dữ liệu của Descartes Datamyne, Việt Nam là một trong những nhà xuất khẩu đồ nội thất sang Hoa Kỳ  lớn nhất và các nhà cung cấp ở nước này cũng sản xuất quần áo, máy móc điện, chất bán dẫn và các sản phẩm cao su. 

"Việt Nam đã ... có thể nói với khách hàng của họ rằng 'Bạn muốn một sản phẩm; Tôi sẽ cung cấp cho bạn', ngược lại với 'Bạn muốn một sản phẩm; hãy cho tôi biết cách làm nó, và tôi sẽ làm cho bạn.’ Tom Gould, phó chủ tịch hải quan toàn cầu tại Flexport, cho biết trong một Hội thảo trên web tháng 7. 

Tính linh hoạt này đã khiến Việt Nam trở thành đối tác nhập khẩu hàng đầu của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, khi các công ty trong những năm qua đã tìm cách đa dạng hóa cơ sở tìm nguồn cung ứng của mình ngoài Trung Quốc. 

Việt Nam là nguồn cung cấp sản phẩm chính ở Châu Á 

Các khu vực cung cấp hàng hóa hàng đầu cho người mua ở Hoa Kỳ 

Biểu đồ: Shefali Kapadia / Supply Chain Dive Nguồn: QIMA

2. Một câu chuyện thành công của đại dịch đã bị đảo lộn 

Thời kỳ đầu của đại dịch, Việt Nam được xem là câu chuyện vượt qua thành công coronavirus. 

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, các biện pháp ngăn chặn nghiêm ngặt và sự bùng nổ xuất khẩu đã giúp nền kinh tế nước này tăng trưởng 2,9% vào năm 2020, "một trong những tốc độ tăng trưởng cao nhất trên thế giới". 

Nhưng khi một làn sóng coronavirus mới xảy ra vào tháng 5 năm 2021, câu chuyện đã bị đảo lộn. 

Lúc đầu, các biện pháp ngăn chặn trong nước lẽ ra chỉ kéo dài trong thời gian ngắn. Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm sản xuất của cả nước, đã thực hiện các biện pháp tránh xa xã hội vào ngày 31 tháng 5 chỉ kéo dài hai tuần. 

Nhưng khi các trường hợp nhiễm COVID-19 leo thang, các lệnh ở yên trong nhà cũng được tăng cường, theo một trình theo dõi coronavirus hàng ngày trong Báo cáo tóm tắt Việt Nam. Các lệnh ở yên trong nhà được ban hành, các cuộc tụ họp bị hạn chế và các nhà máy đóng cửa, tất cả đều do chính phủ nỗ lực giảm thiểu sự lây lan của đại dịch. 

Dưới 3.000 ca tử vong do COVID-19 đã được báo cáo ở Việt Nam trước tháng 5 năm 2021. Con số đó hiện đã lên đến 21.000 ca, theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới. 

Các ca nhiễm COVID-19 ở Việt Nam bùng nổ sau tháng 5 năm 2021 

Các trường hợp được xác nhận dương tính kể từ ngày 31 tháng 12 năm 2019. Ngày đánh dấu sự kiện giãn cách xã hội vào năm 2021.

Biểu đồ: Edwin Lopez / Chuỗi cung ứng Dive Nguồn: Tổ chức Y tế Thế giới

3. COVID-19 khiến bến cảng hoạt động chậm 

Các trường hợp nhiễm COVID-19 cũng xuất hiện tại cảng Việt Nam, góp phần làm giảm xuất khẩu do các chuyến hàng bị trì hoãn, theo dữ liệu từ Project44. Thời gian chờ của container tăng liên tục kể từ tháng 8, đạt gần một tuần trì hoãn vào thời điểm lệnh giãn cách xã hội được gỡ bỏ vào ngày 1 tháng 10. 

"Không giống như các cảng khác ở Mỹ và một số cảng ở Trung Quốc, thời gian chờ và tắc nghẽn ở Việt Nam chủ yếu liên quan đến việc giãn cách COVID-19", Hariesh Manaadiar, Giám đốc thị trường và tình báo dữ liệu tại Project44, cho biết thêm lực lượng lao động hiện có tại các cảng Việt Nam giảm "khoảng 50%." 

Thời gian chờ tại cảng Thành phố Hồ Chí Minh tăng do COVID-19 

Thời gian chờ của container hàng ngày tại Tân Cảng Sài Gòn 

Biểu đồ: Edwin Lopez / Supply Chain Dive Nguồn: project44

Lưu ý: Cổng dữ liệu tải cho ngày 11 tháng 9 năm 2021 là trung bình của các ngày kế đó do thiếu điểm dữ liệu.

4. Nhập khẩu giảm mạnh do ngừng hoạt động 

Khi các nhà máy đóng cửa và sản xuất chậm lại trên khắp đất nước, xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ cũng bắt đầu giảm, Chris Jones, phó giám đốc điều hành ngành công nghiệp và dịch vụ của Descartes, cho biết trong một email. Sự sụt giảm mạnh nhất về xuất khẩu là vào tháng 9, vài tháng sau khi bắt đầu giãn cách. 

Jones nói: “Về lý do tại sao lượng hàng hoá được giữ trong suốt tháng Bảy và tháng Tám và chỉ bắt đầu giảm vào tháng Chín, chúng tôi phải giải thích cho sự chậm trễ giữa sản xuất và vận chuyển. "Với cuộc khủng hoảng vận tải biển toàn cầu, nhiều khả năng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong tháng 7 và tháng 8 đã được sản xuất sớm hơn nhiều trong năm." 

Sau nhiều năm tăng trưởng, nhập khẩu của Việt Nam giảm mạnh trong tháng 9 

Tổng nhập khẩu từ Việt Nam tính theo TEU

Biểu đồ: Edwin Lopez / Supply Chain Dive Nguồn: Descartes Datamyne

5. Các thương hiệu toàn cầu đối mặt với rủi ro cao 

Sự kết hợp của các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của người gửi hàng đã ảnh hưởng đến thương hiệu trên toàn thế giới, mặc dù không phải mọi sản phẩm và công ty đều bị ảnh hưởng như nhau. 

Cowen and Company đã công bố một báo cáo nghiên cứu vào đầu tháng 10, xem xét tác động tiềm tàng đối với việc ngừng bán hàng ở Việt Nam có thể có. Là một phần của nghiên cứu đó, các nhà phân tích của ngân hàng đầu tư đã xem xét mức độ tiếp xúc của các thương hiệu cụ thể đối với quốc gia bằng cách đo lường phần trăm cơ sở tìm nguồn cung ứng của họ với các hoạt động tại Việt Nam. 

Khi tình hình trở nên tồi tệ hơn vào tháng 8 và tháng 9, một số công ty chịu rủi ro cao cho biết họ mong đợi những tác động tài chính trong hồ sơ SEC là kết quả trực tiếp của tình hình ở Việt Nam. 

Jonathan Ramsden, Giám đốc tài chính của Big Lots, cho biết việc đóng cửa nhà máy dự kiến sẽ khiến công ty mất 60 triệu đô la doanh thu "do các hóa đơn [chúng tôi] không mong đợi đến vào đúng mùa bán hàng bình thường." 

Các thương hiệu phụ thuộc nhiều vào Việt Nam chịu nhiều rủi ro hơn 

% tổng nguồn cung ứng tại Việt Nam cho mỗi thương hiệu 

Biểu đồ: Edwin Lopez / Supply Chain Dive Nguồn: Cowen and Company

6. Người bán đồ nội thất, quần áo thấy được những ảnh hưởng

Big Lots đặc biệt gọi danh mục sản phẩm nội thất của mình là một phân khúc có rủi ro về bán hàng. Đồ nội thất là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm 35% tổng TEU được đưa vào Hoa Kỳ và 28% vận đơn, theo dữ liệu của Cục Hải quan và Bảo vệ Biên giới do Descartes 'Jones cung cấp. 

Nhưng các công ty cung cấp các danh mục khác cũng đang thấy được những ảnh hưởng. 

Nhập khẩu quần áo cũng giảm vào tháng 9 năm 2021 

Nhập khẩu của Hoa Kỳ từ Việt Nam từ năm 2019, tính theo TEU 

Biểu đồ: Edwin Lopez / Supply Chain Dive Nguồn: Descartes Datamyne 

Lưu ý: Ngày đánh dấu sự kiện giãn cách xác hội vào năm 2021. Biểu Thuế quan hài hòa chương 61 bao gồm các mặt hàng quần áo và phụ kiện quần áo, dệt kim hoặc móc; Chương 62 bao gồm các mặt hàng may mặc và phụ kiện quần áo, không dệt kim hoặc móc; chương 63 bao gồm các sản phẩm dệt đã hoàn thiện khác, bộ, quần áo cũ và các sản phẩm dệt đã sờn, vải vụn; Chương 64 bao gồm Giày, dép, bộ đi và các loại tương tự, và các phần của các mặt hàng này. 

Vậy tiếp theo là gì?

Các nhà máy bắt đầu mở cửa trở lại kể từ tháng 10, nhưng có thể mất một thời gian trước khi năng suất phục hồi. 

Các sự kiện trong những tháng qua đã gây ra một thiệt hại đáng kể cho người lao động trong nước. Trong những ngày sau khi các lệnh hạn chế được gỡ bỏ, Reuters đưa tin hàng nghìn công nhân đã rời thành phố Hồ Chí Minh, nơi gần một nửa số trường hợp COVID-19 được báo cáo đã diễn ra. Và hiện nay, các nhà sản xuất ở Việt Nam lo ngại tình trạng thiếu lao động bổ sung mặc dù nền kinh tế đã mở cửa trở lại. 

Trong ghi chú nghiên cứu của mình, Cowen gợi ý rằng năng suất có thể bình thường hóa bất cứ lúc nào từ cuối tháng 10 năm 2021 (một "quan điểm lạc quan nhưng kém thực tế nhất") đến quý 1 năm 2022 (một "quan điểm hà khắc").

Cho đến khi năng suất phục hồi, các công ty sẽ tiếp tục phải đối mặt với việc sản phẩm bị chậm hoặc hủy. 

John Kernan, tác giả của báo cáo Cowen, cho biết trong một email vào tuần đầu tiên của tháng 10: “Các đơn đặt hàng hiện đã được 8 tuần cộng với việc bị trì hoãn trong các mối quen biết của chúng tôi”. Ngoài ra, “các nhà cung cấp đang hủy các đơn đặt hàng mà các nhà bán lẻ đang thực hiện.”

Tác giả: Edwin Lopez 

Nguồn: supplychaindive.com


Tin tức liên quan

NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG HỆ THỐNG CẢNG, HẢI QUAN BẮT ĐẦU TỪ 1/4/2021
NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG HỆ THỐNG CẢNG, HẢI QUAN BẮT ĐẦU TỪ 1/4/2021

1391 Lượt xem

Hôm nay ngày 1/4/2021, thế giới hay thường gọi hôm nay là này cá tháng Tư. Những sự kiện gì xảy trong ngày hôm nay đối với hệ thống logistics và vận tải.

COVID BÙNG PHÁT GÂY KẸT CẢNG TRÊN DIỆN RỘNG TRÊN CÁC CẢNG MIỀN NAM VIỆT NAM
COVID BÙNG PHÁT GÂY KẸT CẢNG TRÊN DIỆN RỘNG TRÊN CÁC CẢNG MIỀN NAM VIỆT NAM

1968 Lượt xem

Việc kẹt cảng tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) đã được kéo dài trong hai tuần vào Chủ nhật, cùng với 19 tỉnh thành phố khác trên toàn bộ khu vực phía Nam.


Bình luận
  • Đánh giá của bạn
Đã thêm vào giỏ hàng